Bệnh tả
Ngày đăng: 29/04/2010
Lượt xem: 7858
Bệnh tả là một bệnh nhiễm trùng tiêu hóa cấp tính do vi khuẩn gram âm hình dấu phẩy có tên V. cholerae gây ra. Bệnh có một lịch sử lâu đời đặc trưng bởi sự bộc phát dịch và các trận đại dịch.
Bệnh tả phát triển trong những cộng đồng không đủ nước uống sạch và có vấn đề về xử lý chất thải
Vào thập niên 1990 đã chứng kiến trận đại dịch tả lần thứ bảy lây lan vào nước Mỹ Latin, và bệnh vẫn còn là bệnh dịch địa phương ở vùng Đông Nam Á và các vùng châu Phi và Nam Mỹ. Không giống như Salmonella và Campylobacter, V. cholerae sống tự do trong nước ngọt, chỉ gây nhiễm cho người. Những người lành mang vi khuẩn là ổ chứa chủ yếu. Bệnh lây truyền qua thức c ăn nhiễm khuẩn; tôm cua sò hến sống ở vùng nước ngọt và vùng cửa sông cũng là nguồn lây. Lây truyền trực tiếp từ người sang người được nghĩ là hiếm. Do đó, tả tiếp tục phát triển ở các cộng đồng không có nguồn nước uống sạch và xử lý chất thải. Các trường hợp tả vẫn xảy ra ở các nước phát triển, nhưng do tiêu chuẩn vệ sinh cao nên không có lây nhiễm thứ phát. Hơn 20 năm qua, có 66 trường hợp được báo cáo ở Anh và 10 trường hợp ở Mỹ, có nghĩa là có khoảng một trường hợp trong mỗi 500 000 người du lịch đến vùng có tả là bệnh dịch địa phương
Các týp huyết thanh của V. cholerae dựa vào các kháng nguyên thân (O)
Týp huyết thanh O1 là quan trọng nhất và được phân chia thành hai týp sinh học: cổ điển và El Tor. Týp El Tor, được đặt tên như vậy vì sau khi trạm cách ly El Tor lần đầu tiên phân lập được từ những người hành hương trở về từ Mecca, khác với týp cổ điển ở một vài điểm. Đặc biệt, nó chỉ gây tiêu chảy nhẹ và có tỉ lệ người lành mang vi khuẩn cao hơn so với týp cổ điển; người lành mang vi khuẩn cũng lâu hơn và vi khuẩn sống sót ở môi trường tốt hơn. Týp El Tor, gây ra trận đại dịch lần thứ bảy đó, bây giờ lây lan khắp nơi trên thế giới và chiếm chỗ týp cổ điển.
Vào năm 1992 một chủng không phải O1 (O139) xuất hiện ở phía nam Ấn Độ và lây lan nhanh. Nó có thể gây nhiễm cho các cá nhân đã có miễn dịch với O1 và gây bộc phát dịch, và nó được tuyên bố như chủng gây đại dịch tả lần thứ tám.
Các loài Vibrio khác cũng gây nhiễm trùng cho người. V. parahaemolyticus là một tác nhân gây tiêu chảy khác, nhưng ít nặng hơn nhiều so với tiêu chảy do Cholerae (xem thêm ở dưới).
Các triệu chứng của bệnh tả là do độc tố ruột gây ra
Triệu chứng của bệnh tả là do sự sản xuất độc tố ruột của vi khuẩn ở đường tiêu hóa. Tuy nhiên, vi khuẩn phải có thêm các yếu tố độc tính để có thể sống sót sau sự đề kháng của ký chủ và bám dính vào niêm mạc ruột.
Đặc điểm lâm sàng của bệnh tả bao gồm : Tiêu chảy dữ dội, phân không máu, phân giống như nước vo gạo và có thể mất một lít nước mỗi giờ. Mất nước và mất cân bằng điện giải, toan chuyển hóa (mất bicarbonate), giảm kali máu (mất kali) và sốc giảm thể tích dẫn đến suy tim. Nếu không được điều trị, tử vong do tả là 40-60%;nếu được bù nước và điện giải nhanh chóng sẽ giảm tử vong <1%.
Nuôi cấy thì cần thiết để chẩn đoán các trường hợp tả lẻ tẻ hoặc trường hợp tả được nhập cảnh và những người lành mang trùng
Ở nước có bệnh tả đang lưu hành, chẩn đoán dựa vào đặc điểm lâm sàng và xét nghiệm . Cần nhớ rằng nhiễm trùng do ETEC có thể giống như tả ở mức độ trầm trọng,nhưng đối với cả hai bệnh thì bù nước và điện giải là hết sức quan trọng.
Bù nước và điện giải ngay lập tức là điều trị chủ yếu
Bù nước và điện giải qua đường miệng và đường tĩnh mạch có thể được sử dụng. Kháng sinh thì không cần thiết, ngoại trừ Tetracycline có thể được dùng vì một vài bằng chứng cho thấy rằng điều này làm giảm thời gian thải V. cholerae, từ đó làm giảm nguy cơ lây lan vi khuẩn. Tuy nhiên, đã có báo cáo về V. cholerae đề kháng Tetracycline ở một số vùng.
Giống như những bệnh tiêu chảy khác, cung cấp nguồn nước uống sạch và xử lý chất thải đúng là chủ yếu để phòng ngừa bệnh tả.
Đăng bởi: Khoa Vi Sinh ( Nguồn MEDICAL MICROBIOLOGY)
Các tin khác
THÔNG TIN THUỐC THÁNG 5 / 2013 21/08/2013
THÔNG TIN THUỐC THÁNG 6 / 2013 21/08/2013