Propranolol trong điều trị u mạch máu ở trẻ em
Ngày đăng: 29/09/2010
Lượt xem: 98804
Propranolol là thuốc đối kháng thụ thể beta-adrenergic đầu tiên được FDA phê duyệt sử dụng vào năm 1976 và cho đến nay propranolol đã có nhiều ứng dụng điều trị. Vài năm gần đây, nhiều ca báo cáo cho thấy propranolol có hiệu quả trong điều trị u mạch máu ở trẻ em. Tuy nhiên, hiện nay một số thử nghiệm lâm sàng của propranolol cho ứng dụng điều trị này chỉ mới được tiến hành ở giai đoạn đầu.
Tóm tắt một số đặc tính dược lý chủ yếu của propranolol:
Cơ chế tác động:
Propranolol có tác dụng gây co mạch, kết quả là làm giảm màu sắc của u mạch máu. Tuy nhiên, hiệu quả chính của propranolol là làm thay đổi quá trình tạo mạch trong u mạch máu. Quá trình điều hòa sự phát triển của u mạch máu liên quan đến yếu tố phát triển nguyên bào sợi (bFGF) và yếu tố phát triển nội mạch (VEGF). Có giả thuyết cho rằng propranolol có thể làm giảm sự thể hiện của bFGF và VEGF. Dựa trên sự xem xét mô của u mạch, các nhà nghiên cứu cũng cho rằng chất đối vận beta-adrenergic có thể cắt bỏ tín hiệu của thụ thể catecholamine, làm giảm AMP vòng và nồng độ VEGF. Hơn nữa, propranolol có thể làm tiêu các u mạch do kích hoạt chương trình chết tế bào ở nội mô.
Dược động học:
Propranolol được hấp thu tốt qua đường uống, nhưng chịu sự chuyển hoá qua gan lần đầu rất đáng kể. Nồng độ đỉnh trong huyết tương đạt được sau 1-4 giờ dùng thuốc. Dùng chung với thức ăn có nhiều đạm sẽ làm tăng sinh khả dụng của thuốc. Propranolol gắn kết với protein huyết tương cao (90%), thể tích phân bố ở người lớn khoảng 4-5L/kg. Propranolol liên hợp với glucuronic tạo chất chuyển hóa chính và không có hoạt tính. Propranolol là chất nền của CYP2D6 và CYP1A2. Thời gian bán thải trung bình ở người lớn là 2-6 giờ.
Chống chỉ định, thận trọng:
Propranolol có thể làm giảm chức năng tim ở những bệnh nhi có u mạch lớn hay u mạch máu lan tỏa nên cần theo dõi bệnh nhân chặt chẽ. Propranolol sử dụng thận trọng ở những bệnh nhân rối loạn chức năng gan thận, bệnh nhân tim mạch, hen suyễn, tiểu đường và tăng nhãn áp.
Tác dụng phụ:
Theo các tài liệu được công bố cho đến thời điểm này, điều trị với propranolol đường uống được dung nạp tốt ở phần lớn trường hợp u mạch máu ở trẻ em. Các tác dụng phụ chủ yếu khi dùng thuốc cho trẻ em bao gồm: ngủ gà, cao huyết áp, chậm nhịp tim, co thắt phế quản và hạ đường huyết. Các phản ứng này đáp ứng với sự giảm liều và không cần ngừng thuốc.
Tương tác thuốc:
Phenobarbital, phenytoin, rifampin có thể làm tăng chuyển hoá propranolol, do đó làm giảm nồng độ thuốc huyết thanh, dẫn đến giảm hiệu quả điều trị.
Thuốc chẹn kênh Canxi, chlorpromazine, cimetidine, ciprofloxacin, diphenhydramine, flecainide, fluconazole, haloperidol, hydralazine, isoniazid, propylthiouracil, quinidine, ritonavir, thuốc ức chế tái hấp thu chọn lọc serotonin (SSRIs), terbinafine, theophylline, thuốc chống trầm cảm 3 vòng, zileuton có thể làm tăng nồng độ propranolol trong máu nên tăng nguy cơ gây độc tính.
Propranolol nên được chỉ định thận trọng cho những bệnh nhân đang dùng các thuốc trị tiểu đường, thuốc chống loạn nhịp và các thuốc điều chỉnh huyết áp khác. Propranolol làm tăng nồng độ diazepam, warfarin; làm giảm nồng độ lovastatin và pravastatin. Không nên dùng chung propranolol với IMAO và dẫn xuất nấm cựa gà.
Liều dùng:
Trước khi bắt đầu điều trị, nên khai thác tiền sử gia đình (chú ý đến bệnh tim mạch), kiểm tra sức khoẻ toàn diện, đánh giá nhịp tim và huyết áp.
Khởi đầu điều trị với liều 0,5 - 1 mg/kg/ngày (chia làm 3 lần trong ngày). Nếu dung nạp tốt, có thể tăng liều lên 2-3 mg/kg/ngày. Tiếp tục điều trị trong 6 đến 12 tháng, điều chỉnh liều dùng hàng tháng dựa trên cân nặng. Giảm 50% liều dùng trong 1-2 tuần trước khi ngưng điều trị.
Khuyến cáo liều dùng này chỉ áp dụng cho propranolol đường uống. Hiện tại, chưa có khuyến cáo hướng dẫn liều dùng propranolol đường tiêm cho trẻ bệnh u mạch máu.
Cần theo dõi chặt chẽ đường huyết và các thông số tim mạch sau liều khởi đầu hay mỗi khi thay đổi liều dùng.
Tóm lại, dựa trên kết quả điều trị thành công của nhiều trường hợp, propranolol đường uống đóng vai trò như 1 liệu pháp hàng đầu trong điều trị u mạch máu ở trẻ em. Mặc dù các thử nghiệm lâm sàng có đối chứng chưa hoàn tất nhưng hiệu quả của propranolol trong việc làm giảm kích thước của u mạch máu ở mặt, hốc mắt và ở đường dẫn khí cũng như các phản ứng phụ ở mức độ nhẹ đã khiến propranolol được ưa chuộng sử dụng hơn các phương pháp điều trị truyền thống. Các ca báo cáo gần đây cũng cho thấy hiệu quả của propranolol trong điều trị u mạch gan và u mạch lan tỏa.
Nguồn: Pediatric Pharmacotherapy 2010; 16(8).
Đăng bởi: DS Trần Thị Thanh Vui
Các tin khác
THÔNG TIN THUỐC THÁNG 5 / 2013 21/08/2013
THÔNG TIN THUỐC THÁNG 6 / 2013 21/08/2013