Dậy Thì Sớm - Dậy thì muộn
Ngày đăng: 08/11/2013
Lượt xem: 24606
Ngày càng có nhiều trẻ em xuất hiện tình trạng dậy thì sớm. Dậy thì sớm được định nghĩa khi các biểu hiện dậy thì xuất hiện ở trẻ trai trước 10 tuổi, ở trẻ gái trước 8 tuổi
Biểu hiện như tinh hoàn phát triển về kích thước, mọc lông mu, lông nách, bộ phận sinh dục ngoài tăng kích thước. Ở trẻ gái mọc lông mu sớm, ngực phát triển, bộ phận sinh dục ngoài phát triển. Xuất hiện kinh nguyệt sớm.
Thông thường khi thấy những biểu hiện trên thì trẻ đã dậy thì sớm trước đó nhiều tháng , thậm chí cả năm. Ngoài ra còn có những biểu hiện khác như rối loạn tâm tính, đau đầu,...
Thường nguyên nhân gây dậy thì sớm ở trẻ trai là do nguyên nhân trung ương , từ vùng hạ đồi. Thường có tính chất gia đình, có cha hay ông có tiền sử dậy thì sớm. hoặc ở những trẻ được xin làm con nuôi. Nguyên nhân dậy thì sớm còn có thể do ngoại vi như u vùng tuyến thượng thận, u buồng trứng, dùng corticoit kéo dài,...
Ngoài những nguyên nhân do cơ thể , có những nguyên nhân mắc phải như béo phì do chế độ ăn uống nhiều đạm mỡ, ăn phải thịt có nhiều chất kích thích, nhiễm 1 số chất như Bisphénol A , có trong 1 số nhựa làm núm vú hay bình nhựa ở trẻ em, chất Ptalates có trong hộp nhựa, chai nhựa , túi nhựa đựng thức ăn,..uống sữa đậu nành quá nhiều ở trẻ nhỏ...
Oestrogen trong các loại thuốc, thực phẩm, chất dưỡng da có thể qua đường ruột, sữa hoặc da, đi vào hệ tuần hoàn máu hoặc toàn thân của đứa trẻ, gây nên những biểu hiện dậy thì sớm. Tình trạng đó được gọi là “chứng dậy thì sớm có nguồn gốc từ bên ngoài”. Nếu không can thiệp thì trẻ sẽ có nguy cơ phát triển sớm và dừng tăng trưởng . Hậu quả sẽ lùn ở tuổi trưởng thành.
Do đó việc phát hiện sớm tình trạng Dậy thì sớm ở trẻ là cần thiết để tìm nguyên nhân và can thiệp. Dậy thì ở trẻ gái nhiều gấp 5 lần so với trẻ nam. Khi phát hiện trẻ dậy thì, bác sĩ sẽ xem lại biểu đồ tăng trưởng của trẻ và làm các xét nghiệm cần thiết để chẩn đoán các nguyên nhân có thể gây ra Dậy thì sớm như:
- Chụp X quang xương cổ tay và bàn tay , khuỷu để chẩn đoán tuổi xương.
- Xquang sọ não để loại bỏ u não
- Đo nồng độ Hooc mon trong máu và trong nước tiểu
- Chụp Cộng hưởng từ (IRM) khi cần để khảo sát tuyến yên.
-Siêu âm tử cung và buồng trứng ở trẻ gái.
Sau khi đã tìm nguyên nhân và can thiệp , tùy theo từng trường hợp Bs sẽ có chỉ định điều trị thuốc.
Điều trị thuốc có thể ức chế một cách hữu hiệu sự tiết ra GnRH quá sớm, từ đó mà ức chế sự phát dục của noãn bào và sự tiết ra testosteron. Ưu điểm nổi bật của phương pháp này là ức chế sự hoàn thiện quá sớm của xương, có tác dụng cải thiện chiều cao cơ thể do ức chế sự tăng trưởng Hooc mon giới tính.
Về phần cha mẹ , cần nói cho trẻ hiểu chuyện gì xảy ra trong cơ thể trẻ, nên giải thích để trẻ yên tâm và dạy trẻ cách tự chăm sóc cơ thể, đặc biệt bộ phận sinh dục. Và nên dự trù 1 số tình huống khi trẻ bị lo âu, tâm trạng buồn phiền, bị bạn bè trêu chọc, hay mệt mỏi khi có kinh nguyệt. Tránh để trẻ sốc khi cảm nhận sự khác biệt của mình với bạn cùng trang lứa.
Dậy thì muộn
Ngược lại khi trẻ gái trên 13-14 tuổi và trẻ trai trên 15-16 tuổi vẫn chưa xuất hiện những biểu hiện của dậy thì thì xem như dậy thì muộn.
Có nhiều nguyên nhân, có thể do di truyền , đơn giản là từ các thế hệ trước. Trong gia đình có nhiều người dậy thì muộn, và không cần điều trị đặc hiệu.
Nguyên nhân do chế độ ăn uống không hợp lý: suy dinh dưỡng kéo dài, trầm cảm hay rối loạn nhận thức như ở trẻ gái sợ mập..Ngoài ra còn có nguyên nhân do có bệnh mãn tính: như tiểu đường, suyễn, bệnh thận,v.v... Khi có vấn đề như trên , gia đình cần phải đưa trẻ đi khám và điều trị.
Dậy thì muộn khi có vấn đề ở tuyến yên hay tuyến giáp, đó là các tuyến sản xuất hooc mon quan trọng cho sự tăng trưởng cơ thể và phát triển.
Có 1 số rất ít trẻ bị dậy thì muộn do rối loạn nhiễm sắc thể như hội chứng Turner ở trẻ gái, hội chứng Klinefelter ở trẻ nam , có thêm 1 nhiễm sắc thể X (XXY thay vì XY).
Tóm lại ở trẻ em nên theo dõi sát biểu đồ tăng trưởng và việc khám sức khỏe định kỳ cho trẻ là rất cần thiết để đảm bảo trẻ phát triển bình thường và phát hiện những biểu hiện bất thường sớm nhất. Trẻ 1 tuổi 1tháng khám 1 lần, trẻ 2 tuổi 2 tháng khám 1 lần, trẻ 3tuổi khám mỗi 3 tháng, trẻ 4tuổi khám mỗi tháng, các trẻ lớn khác ít nhất khám 1lần trong 6 tháng.
Đăng bởi: BS.CK2.Nguyễn Thị Thanh - TK.Dịch vụ 1
Các tin khác
Chọn đúng vị trí để tiêm insulin 08/09/2015
Bảo quản thuốc đái tháo đường đúng cách 08/09/2015
Dậy thì sớm 14/08/2013
Bệnh tiểu đường ở trẻ em và thanh thiếu niên 25/06/2012